(40+ mẫu) Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (cực hay) [mới nhất 2023]

Bạn đang tìm (40+ mẫu) Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (cực hay) hãy để ttgdnn-gdtxquan11.edu.vn gợi ý cho bạn qua bài viết (40+ mẫu) Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (cực hay) [mới nhất 2023] nhé.

New Page

văn học lớp 10

(40+ ví dụ) Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (đặc sắc)

Bởi thptphandinhphung 13/01/2023

Liệt kê hơn 40 bài luận. Phân tích bài thơ Mùa xuân chín hay nhất kèm theo dàn ý chi tiết để các em có thêm tài liệu tham khảo để tiếp tục viết văn tốt hơn.

(40+ ví dụ) Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (đặc sắc)

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – Ví dụ 1

Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận xét: “Thơ Hàn Mặc Tử là thơ đưa đời ra khỏi hư vô”. Đúng là cũng như đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một trái tim khao khát được yêu và được sống. Một trong số đó là bài thơ “Chín mùa xuân”. Đoạn thơ được trích từ tập Nỗi đau (1938) – được coi là “thơ trong sáng nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo nhưng cũng đầy bí ẩn và đau đớn.

“Raw Spring” đã gây ấn tượng với độc giả với tiêu đề của nó. Bởi khi đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u tối, mơ màng, huyền bí, buồn đau với những hình ảnh tiêu biểu là “máu”, “trăng” và “rượu”. Tuy nhiên, “mùa chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ chỉ tình trạng của trái lúc thu hoạch, ngọt, mọng nước và thơm. Với tâm niệm này, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “nguồn trưởng thành” – nguồn tràn đầy sức sống, dồi dào và dạt dào. Mùa xuân hiện ra từ những khía cạnh đẹp đẽ nhất của nó, rạng ngời, tràn đầy sức sống.

Chu kỳ thơ là một dòng suy nghĩ không chắc chắn với những thay đổi kênh đột ngột. Đã đến lúc tác giả chìm vào giây phút hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp trước mắt, rồi chợt nhớ về quá khứ xa xăm với cảnh làng quê thân yêu. Về cảnh vật, hình ảnh mùa xuân đột ngột chuyển từ ngoại cảnh (mái tranh, nhà tranh Thiên-Lý, cỏ xanh sóng biếc,…) sang tâm trạng (cô gái cày ruộng bên bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tư tưởng của mình với nhiều khúc ngoặt: từ say mê, rạo rực đến trạng thái hoài niệm, rạo rực, bùi ngùi. Có thể thấy, vòng tuần hoàn thơ ca không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú.

Đoạn thơ mở đầu bằng một hình ảnh ngẫu nhiên tươi tắn, tràn đầy ánh sáng, tràn ngập sắc xuân:

“Trong nắng oi ả khói mơ đã tan Những mái tranh đã dát vàng Gió xào xạc tà áo xanh Trên giàn thiên lý Bóng xuân đang về”.

Mùa xuân bất chợt hiện ra, tràn ngập sắc vàng của nắng hòa lẫn với làn sương mờ ảo, huyền bí. Sự kết hợp từ “mơ tan theo khói” khiến ta liên tưởng đến màn sương tan trong nắng tạo nên một khung cảnh thơ mộng. Màu vàng của nắng càng thêm rực rỡ qua hình ảnh những “mái tranh vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, tĩnh lặng ấy, nhà thơ chợt nghe tiếng “xào xạc” của “gió trêu tà áo xanh”. Thủ pháp đảo ngữ, nhân hóa được nhà thơ vận dụng tài tình. “Rustle” được đảo ngược khi bắt đầu chuyển động để nhấn mạnh tính năng động của cảnh. Gió như đùa giỡn với tà áo xanh đón xuân, làm cho mùa xuân trở nên sống động, tươi vui và tràn đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ hướng cái nhìn của mình lên “Thiên đình”. Dấu chấm ở giữa câu thơ như ngắt nhịp, ngắt nhịp. Vì đó là lúc nhà thơ bàng hoàng nhận ra “Bóng xuân”. Mùa xuân trong tầm tay, có thể nhìn thấy bằng mắt. Bóng xuân nhẹ nhàng bước tới như đứng trước mặt thi nhân, làm người ta ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng sắc xuân tươi đẹp này.

Từ góc nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử nhìn vào khoảng không. Căn phòng mùa xuân rộng mở với “sóng cỏ xanh rì rào hướng trời”. “Sóng” được kết bằng thảm xanh, khiến người đọc tưởng tượng từng lớp cỏ nối tiếp nhau, như thể sức sống đang không ngừng bành trướng, căng trào mãnh liệt. Ý thơ làm ta liên tưởng đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng tả một căn phòng mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng nét độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi một sự uyển chuyển, dịu dàng, êm ái của những lớp cỏ mùa xuân. Sinh lực tuôn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và khép lại với một “nguồn trưởng thành”!

Từ cảnh mùa thu, Hàn Mặc Tử bỗng chuyển sang mùa thu tình, hình ảnh bên ngoài lại trở về hình ảnh tâm trạng. Phải chăng nhà thơ dùng cảnh mở đầu để nói tình, tả tình? Một tình yêu chân thành ấm áp với con người và cuộc sống. Hòa vào không khí hân hoan của mùa xuân, ta thấy được niềm phấn khởi trong lòng người:

“Còn bao cô thôn nữ ngày mai tiếng hát trên đồi bên suối xanh này. Mấy ai theo chồng bỏ cuộc chơi”.

“Xuân xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Nguồn của nó đẹp và rạng ngời như nguồn của đất trời. Vì thế, niềm vui của những cô gái làng xuân là tình xuân. Nắng ửng hồng là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo trai bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của cô là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân lên đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân, mà còn là tình xuân. “Độ chín” trong tình yêu là kết quả của vợ chồng. Niềm hạnh phúc của các cô gái được thể hiện trong “khúc hát qua lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã tài tình sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm xúc. Tiếng “hát” được cảm nhận bằng thính giác, nay được thấy ở trạng thái “ Ngẫu nhiên và người hát đồng thanh, hát đồng thanh hay ngẫu nhiên chơi qua lời bài hát của con người. cả hai hòa vào cùng một bài hát. Đó là tiếng hát của những cô thôn nữ, nhưng cũng là tiếng hát của mây. Ngẫu nhiên và người hát đồng thanh, hát đồng thanh hay ngẫu nhiên chơi qua lời bài hát của con người. cả hai hòa vào cùng một bài hát. Đó là tiếng hát của những cô thôn nữ, nhưng cũng là tiếng hát của mây. Ngẫu nhiên và người hát đồng thanh, hát đồng thanh hay ngẫu nhiên trong lòng họ chơi lời ca của con người. chơi xuyên văn nhân. cả hai hòa vào cùng một bài hát. Đó là tiếng hát của những cô thôn nữ, nhưng cũng là tiếng hát của mây. Ngẫu nhiên và người hát đồng thanh, hát đồng thanh hay ngẫu nhiên trong lòng họ chơi lời ca của con người. chơi xuyên văn nhân. cả hai hòa vào cùng một bài hát. Đó là tiếng hát của những cô thôn nữ, nhưng cũng là tiếng hát của mây. Ngẫu nhiên và người hát đồng thanh, hát đồng thanh hay ngẫu nhiên trong lòng họ chơi lời ca của con người.

Tiếng thở hổn hển chói tai như mây nước bỗng biến thành tiếng thì thào khe khẽ:

“Thầm thì với ai ngồi dưới gốc tre nghe ngọt ngào hồn nhiên”

Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, ​​siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai trên sông trăng” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Khúc hát” vang vọng núi rừng giờ chỉ còn dành cho “ai đó”. Đó có thể là người bạn yêu thương, cũng có thể là chính bạn, để rồi khi họ tâm sự, sẻ chia, người ta mới lắng nghe được những “ý nghĩa và sự ngây thơ” trong lòng họ. Nhưng câu thơ còn mang nỗi buồn tiếc nuối của nhà thơ trước “mùa chín”. Vì “xuân chín” cũng là lúc “xuân tàn”, sắc đẹp cũng tàn phai. “Cái xuân xanh” này rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Cả thời thanh xuân tươi đẹp của một thiếu nữ cũng đã đến hồi kết thúc. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, rạo rực, khát khao nắm bắt được mùi hương tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, ở cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử hóa thân vào “khách đường xa” và bày tỏ nỗi nhớ:

“Khách xa, gặp lúc mùa xuân Lòng chín trí bâng khuâng sự nhớ làng -Chị ấy, năm nay con kề cận Bên bờ sông trắng nắng chang chang”.

Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” trào dâng nỗi nhớ làng quê thân yêu. Nhớ làn nắng lơ lửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo lam, nhớ cả gian thiên lý. Đó là một ko gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa tình nghĩa. Và trong ko gian ấy, hình ảnh người chị đang đón tết trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phóng khoáng. Đó có thể là một người dân lao rộng bìng nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là người quen gần giao, hay cũ là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong lưới đẹp lao động với tư thế hiên ngang, hòa cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật mơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể bắt gặp ánh nắng xuân lúc này càng trở nên dài lạnh lùng, lấp ló hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.

Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Ko chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, ko thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng – tinh tế, độc đáo và mới lạ.

Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.

Dàn ý Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

1. Mở bài viết

– Tác phẩm “Mùa xuân chín” được sáng tác trước năm 1973, đã góp phần làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử, thể hiện cái nhìn tinh tế của tác giả về mùa xuân.

2. Thân bài viết

– Cảnh vật làng quê trong mùa xuân chín: làn nắng, mái nhà tranh, gió “sột soạt” trêu tà áo biếc, giàn thiên lí => Bóng xuân sang.

– Mùa xuân chín đến gần hơn bao giờ hết: Sóng cỏ (cách sử dụng từ tài tình) bất tận tới trời + mùa xuân đến trong cả tâm hồn con người: hình ảnh cô thôn nữ đang hát; hạnh phúc đôi lứa

– Niềm hân hoan chào đón xuân chín của con người thể hiện qua tiếng hát từ cao vút đến như thì thầm thơ ngây, làm lòng người xao xuyến.

– Vị khách xa cảm nhận xuân chín, ca ngợi những con người của lao động trong sắc trời mùa xuân.

3. Kết bài viết

– Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang tới cho người đọc là mùa xuân đang ở độ xinh đẹp nhất với đầy đủ các sắc thái khác nhau.

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng” Mùa xuân chín”, ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét “chín” của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”

Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ xinh đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió nhẹ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng” sột soạt”, tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hoà quyện lấy nhau:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời Bao cô thôn nữ hát trên đồi;”

Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi “gợn tới trời” như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

” Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”

Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây, Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc, Nghe ra ý vị và thơ ngây…”

Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch “tiếng ca vắt vẻo” trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Các âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, “hổn hển” “thì thầm” với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. m “ang” cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:

” Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, “chị ấy” giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét xinh đẹp rạng ngời.

Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – mẫu 3

Ko biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân xinh đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai mốt lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” lúc xúc cảm trong con người lữ khách đó đã tới độ tràn đầy.

Nói tới mùa xuân, có người nào ko hiểu đó là những phút rộn rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khát khao trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.

Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái xinh đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân tính từ lúc cái nắng mới lạ thường:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.

Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng nhưng là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhõm, nắng như mỏng tanh, mềm mại trải đều trong thơ và trong ko gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhõm, xinh đẹp dân dã nhưng huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ mòng đang “tan” đó. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng tới một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình tràn đầy. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết đó là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một xúc cảm ấm áp, cảnh vật tương hợp hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ nhưng tinh tế gợi cảm, dung dị nhưng đáng yêu. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân yêu quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo nhưng “trêu”, phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật xinh đẹp. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế!

Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới nói chung: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng xúc cảm nhẹ nhõm, bâng khuâng, vương vấn đón “bóng xuân sang”, xúc cảm ngưng tụ như nín thở đó ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch xúc cảm. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhõm bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.

Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn thi sĩ thì mùa xuân ào tới:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.

Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong ko gian mênh mông, rộng lớn. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành “sóng” như thế ? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình đó trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời”, trải dài mãi như ko dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân đó, tình cảm con người cũng tới độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, mến thương quá. Một nét xinh đẹp truyền thống của dân tộc, xinh đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói tới qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc nhưng tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát đó nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự “chín” lúc có con người và có dư vang tiếng hát:

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây Thầm thì với người nào ngồi dưới trúc Nghe ra ý vị và thơ ngây”.

Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” trình bày một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái toàn cầu âm thanh mùa xuân đó.

Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư vang tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng thi sĩ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của ngẫu nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vã đầy hương xuân, tình xuân, xúc cảm vừa thực vừa mơ tới lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao nhưng đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn trề cả ko gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thầm thì “thầm thì với người nào…” dưới bóng trúc, hẳn là tâm tình, là thân yêu rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người tới nhẹ nhõm lắng dịu, tràn đầy thương yêu. Sự phong phú về nhạc điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng thi sĩ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.

Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:

“Ngày mai trong đám xuân xanh đó, Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.

“Đám xuân xanh đó” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với người nào ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… ngẫu nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng lúc mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới tức là xuân đương qua – Xuân còn non tức là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).

Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một nét bút truyền thống cổ điển “xuân hướng lão” xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đặm đà hơn.

Gặp lúc mùa xuân chín đó nhưng thổn thức:

“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng Chị đó năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn xinh đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Thi sĩ nhớ tới con người như khát khao một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một ko gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị đó” là người đọc ko thể biết nhưng chỉ có tác giả mới biết để nhưng “sực nhớ”, nhưng thầm hỏi. Nhưng man mác sợ “mùa xuân chín” đó sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khát khao giao cảm với đời nhưng luôn có một nỗi niềm lẻ loi, trống vắng, hẫng hụt như thế.

“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rộn rực, say mê, thơ mộng nhưng thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng ngẫu nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tỉnh thơ mộng. Mùa xuân xinh đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.

“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bổi hổi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương yêu, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”…

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – mẫu 4

Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân xinh đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.

Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.

Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái xinh đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.

Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhàng, xinh đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan” ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà “trêu”, phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật xinh đẹp. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế!

Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang”, cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.

Sau dấu chấm, sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì mùa xuân ào đến:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,

Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.

Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật, hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành “sóng” như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời”, trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét xinh đẹp truyền thống của dân tộc, xinh đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự “chín” khi có con người và có dư âm tiếng hát:

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”.

Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.

Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thầm thì “thầm thì với ai…” dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.

Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:

“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.

“Đám xuân xanh ấy” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với ai ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).

Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một nét bút truyền thống cổ điển “xuân hướng lão” xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.

Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn xinh đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị ấy” là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà “sực nhớ”, mà thầm hỏi. Mà man mác sợ “mùa xuân chín” ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.

“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân xinh đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.

“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang…

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – mẫu 5

Tạo hóa đã cho chúng ta được chào đón bốn mùa của đất trời, mỗi mùa đều mang tới một cảm xúc, một vẻ xinh đẹp riêng biệt. Mùa hạ mang vẻ xinh đẹp rực rỡ, sôi động. Mùa thu là sự nên thơ, dịu dàng, khiến lòng người man mác buồn. Mùa đông tuy lạnh lẽo nhưng lại giúp chúng ta được quây quần gần nhau hơn bên bếp lửa ấm áp. Nhưng có lẽ mùa xuân là mùa được mong chờ nhất trong một năm tuần hoàn của thời gian vì nó mang tới sự sinh sôi, tràn ngập sức sống cho sự vật và là mùa khởi đầu cho một năm mới đến. Cũng vì vậy, mùa xuân đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho văn chương. Trong số những tác phẩm viết về mùa xuân, thật thiếu sót lớn khi không nhắc tới bài “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm đã góp phần làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử, được xếp ở phần Hương thơm trong tập “Đau thương”, được sáng tác trước năm 1937 của tác giả.

Ngay từ nhan đề, Mùa xuân chín đã mang tới cho người đọc sự tò mò về “mùa xuân” mà Hàn Mặc Tử mang tới như thế nào? Chúng ta thường thấy từ chín để miêu tả về một loại quả đang ở độ thơm ngon nhất. Mùa xuân Hàn Mặc Tử gửi gắm qua tác phẩm cũng mang theo ý nghĩa như vậy. Đây là một mùa xuân đang ở khoảng thời gian xinh đẹp nhất và tràn ngập sức sống nhất. Như vậy mùa xuân chín xinh đẹp ra sao? Hàn Mặc Tử đã trả lời câu hỏi này qua hai khổ thơ đầu của tác phẩm:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí bóng xuân sang.

 

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…”

Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh mùa xuân thật thanh bình nơi làng quê. Mùa xuân tới, không còn nắng gắt của mùa hạ mà thay vào đó là những “làn nắng” nhẹ nhàng chỉ đủ để “ửng” lên. Trong làn nắng đó là những làn sương mờ ảo như khói trong một giấc mơ đang hòa tan vào nắng. Cách sử dụng từ của Hàn Mặc Tử thật độc đáo, khiến trước mắt người đọc hiện ra khung cảnh thật êm ả và thơ mộng. Cái nắng tinh khiết của độ xuân chín ấy đã chiếu lên “Đôi mái nhà tranh” quen thuộc của làng quê VN một cách rất dịu dàng, chỉ “lấm tấm vàng”. Mùa xuân xinh đẹp nhất ấy còn thể hiện qua những cơn gió khẽ lướt “sột soạt” để trêu “tà áo biếc”.

Khi mùa xuân đến, cỏ cây đơm chồi nảy lộc, phủ khắp nơi một màu xanh biếc đã được ví như “tà áo biếc”, không chỉ vậy, tác giả đã thật khéo léo sử dụng biện pháp đảo ngữ để từ chỉ hoạt động “sột soạt” lên trên đầu câu thay vì tả gió sột soạt để nhấn mạnh hoạt động của gió. Từ “trêu” cũng thật là đáng yêu, gió đang len lỏi vào từng chút quang cảnh xanh biếc của màu xuân, như đang trêu đùa cây cỏ, khiến không khí thật sôi động, vui tươi. Rồi từ cái nhìn bao quát khung cảnh mùa xuân có nắng có gió, Hàn Mặc Tử chuyển tầm mắt đến với những sự vật chi tiết hơn, đó là “giàn thiên lý”, để rồi chợt nhận ra “bóng xuân sang”. Trong những câu thơ trên, tác giả không hề nhắc tới mùa xuân mà chỉ mượn sự vật có trong mùa xuân để tả về xuân chín. Nhưng đến câu thơ cuối của đoạn này, tác giả đã khẳng định “bóng xuân sang”, bởi vì sau khi ngắm nhìn khung cảnh xung quanh từ bao quát đến chi tiết, mùa xuân đã hiện hữu ra ngay trước mắt của tác giả, không còn là thứ vô hình nữa.

Đến đoạn thơ tiếp theo, mùa xuân chín thật sự đã tới gần với Hàn Mặc Tử và chúng ta hơn bao giờ hết với “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Câu thơ này làm gợi nhớ đến một câu thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân đó là “Cỏ non xanh tận chân trời”. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử cũng là hình ảnh cánh đồng cỏ xanh bất tận “tới trời”, nhưng bên cạnh đó nhà thơ đã sử dụng từ một cách tài tình với từ “Sóng cỏ”, khiến cho cánh đồng cỏ như những cơn sóng, đang dập dờn bởi làn gió xuân. Mùa xuân chín, không những được biểu hiện bởi cảnh vật mà còn thể hiện ra bởi con người. Đó là những “cô thôn nữ” đang hát trên đồi, bởi mùa xuân đến có các lễ hội mùa xuân với những bài dân ca, ca dao được cất lên, đây là một nét xinh đẹp trong văn hóa bao đời nay của VN. Niềm vui rộn ràng chào xuân hòa cùng với hạnh phúc lứa đôi, vì ngày mai trong “đám xuân xanh” có người phải đi lấy chồng, “bỏ cuộc chơi”. Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ cho “đám xuân xanh” chỉ những người con gái đang ở tuổi xuân rực rỡ nhất. Như vậy đấy, mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử không chỉ tô điểm cho cuộc sống xinh đẹp hơn mà còn kết quả cho tình yêu lứa đôi.

Niềm hân hoan chào xuân chín của con người được thể hiện rõ hơn ở đoạn thơ thứ 3:

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thì với ai ngồi dưới gốc trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây.”

Các tiếng mừng xuân sang từ “trên đồi” đã bay bổng lên để rồi “vắt vẻo” ở lưng chừng núi. Tiếng ca hòa vào thiên nhiên được tác giả so sánh “Hổn hển như lời của nước mây”. Tiếng ca không còn được miêu tả chỉ bằng thính giác nữa mà Hàn Mặc Tử đã miêu tả chúng bằng cả thị giác, chúng “vắt vẻo” và “hổn hển”. Các tiếng ca đang ở nhịp cao vút đến độ phải “hổn hển” đột nhiên lại “thì thầm” với “ai”. Từ “ai” không chỉ rõ ràng một người nào, đây là nhân vật trữ tình bí ẩn trong thơ của Hàn Mặc Tử. Và những tiếng ca đó thì thầm truyền vào “ai” những ý vị và thơ ngay. Đây là những câu thơ thật lãng mạn, phù hợp với mùa xuân chín.

Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tự mình hóa thành một vị “khách” để cảm nhận cái tình của “mùa xuân chín” rõ ràng nhất:

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.”

Vị khách bất ngờ gặp “mùa xuân chín” mang theo cảm giác tiếc nuối, lưu luyến nhớ về mùa xuân năm nào đó nơi quê nhà “Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng”. Và trong mùa xuân chín xa xôi đó, vị khách nhớ cả người chị của mình. Không biết “chị ấy” năm nay như thế nào? có còn tiếp tục “gánh thóc không? Thực chất, ở đây Hàn Mặc Tử đã sử dụng đai từ phiếm chỉ cho từ “chị ấy”. Chị ấy có thể là chị của vị khách xa, nhưng đây cũng là những người dân lao động nơi làng quê, đang chăm chỉ lao động đầu năm cùng mùa xuân tràn nhựa sống, với ánh nắng chang chang, dọc bờ sông. Một khung cảnh thật hữu tình, báo hiệu một năm mới bội thu và mùa xuân đó càng rực rỡ hơn bởi nó nằm trong kí ức của người khách “xa quê”.

Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang tới cho người đọc là mùa xuân đang ở độ xinh đẹp nhất với đầy đủ các sắc thái khác nhau. Lúc thì nhẹ nhàng, dịu dàng, khi thì nhiệt huyết, rực rỡ và lúc lại mang tới cảm xúc tình lặng, tiếc nuối. Qua tác phẩm, tác giả cũng đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước qua từng nét bút tả cảnh xuân vô cùng chân thật. Và cùng với đó là tình yêu thương và chân trọng con người, những con người VN tràn ngập sức sống và chăm chỉ lao động vì Tổ quốc, giống như “mùa xuân chín” vậy. Cũng vì vậy, tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn nguyên vẹn những giá trị cho tới thời điểm hiện tại.

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – mẫu 6

Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời những bài thơ rất đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong không gian của buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, gợi trong lòng ta biết bao suy nghĩ. “Mùa xuân chín” một khoảng trời riêng của cảm xúc đang “chín” trong lòng nhà thơ, trong lòng người đọc.

Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảmnhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao tận cùng của “Mùa xuân chín”. Nếu có “xuân chín” thì hẳn cũng có “xuân xanh”; “xuân già”. Nằm giữa ranh giới của cái “non trẻ”, cái “già nua”, “Mùa xuân chín” trở nên giá trị nhưng cũng ngắn ngủi, mong manh vô cùng. Để lòng say đắm trong giây phút hoàn hảo nhất của vũ trụ ấy thì còn gì bằng!

“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,

Đôi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.

“Nắng lơ lửng”. Từ “dùng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể tưởng tượng đến ngay cái “chín lơ lửng” của quả đào, quả hồng, cái “ưng lơ lửng” hây hây của đôi má các cô gái trong ngu ngốc lạ lùng Cũng như vậy, xuân đang “chín” lên trong cái “dùng” của nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện ra nhũn ra như quả chín thì chuyển từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lờ mờ, bồng bềnh nâng hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước “vào cõi”. “Đôi mùi nhả tranh tấm vàng”. Các “ấm tấm vàng” đó là hạt nắng hay chíng là những bức ảnh trong đôi mắt người đang Say không phải cái nói “quên trời, quên ất”, cái nói của nhà là nhữm.chí chú, cả âm thanh, cả hình ảnh , sắc hòa cũng làm một : khói tan , mái nhà che nắng , gió thổi soạt tà áo , gian thiên lí . Đó là “bóng xuân”.

“Tiếng thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của cô gái đã đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa nhà thơ về với thực tại. Cả khổ thơ là một trạng thái tiếc nuối, ngậm ngùi:

Buổi sáng mùa xuân xanh

Có người theo chồng đi chơi…

Nhà thơ nghĩ về ngày mai, cảnh vật và con người sẽ khác, những cô gái sẽ không còn những phút hồn nhiên, vô tư hát cùng mùa xuân, cũng như mùa xuân qua đi, “mùa chín” thì mùa xuân sẽ hết. Tâm hồn đa cảm này không khỏi run lên vì xúc động. “Nguồn xanh ấy” Nguồn sống tươi đẹp của con người cũng là nguồn sống tươi đẹp của thiên nhiên được nhà thơ vẽ nên trước mắt người đọc khiến ta phải suy nghĩ. Sau đó, hãy tận hưởng tất cả những khoảnh khắc tuyệt vời này.

tiếng hát giữa lưng chừng núi,

Thở hổn hển như lời của mây…

Thì thầm với ai ngồi dưới lũy tre

Nghe có vẻ ngọt ngào và ngây thơ…

Trí tưởng tượng của tác giả đã đến giới hạn, tiếng hát như “vắt lưng chừng núi”, “thở hổn hển như lời nước máy”. Những nốt nhạc không bay cao, bay xa nhưng vẫn “thì thầm” với ai đó đang ngồi dưới gốc tre. Từ ‘ai’ được đặt một cách nghịch lý cho ta thấy những cảm xúc tinh tế nhất trong tâm hồn nhà thơ. Khúc nhạc bay trong không trung, nhà thơ chỉ “tả” cho “ai”. Đó là tôi và tôi tự nhủ:

Nghe có vẻ ngọt ngào và ngây thơ

Có ít người cảm thấy cả thế giới như thế này! Tác giả nghĩ về đất trời, về những đổi thay, về mùa xuân và nghĩ về mình Xa nhau trong mùa xuân chín

Hóa ra mình chỉ là người lạ, lẻ bóng một mình, đánh “Xuân chín” để có phút trải lòng. Hàn Mặc Tử nhớ làng xưa, hồn bùi ngùi, nhớ làng”.

“Nỗi nhớ” bất chợt, choáng ngợp, tên tác giả, cái tên cha mẹ bạn vẫn gọi Hàn Mặc Tử sao thân thương, gần gũi đến thế. Nhân đây, cũng là một từ đi rất đúng với nỗi nhớ của tác giả. Trong nỗi nhớ quê cũ, hình ảnh đầu tiên dẫn đến “nỗi nhớ quê hương” của tác giả là hình ảnh người con gái. “Cô ấy” có phải là em gái thật, là em họ hay thậm chí là người quen hay…? Chúng ta không thể biết. Nhưng chúng ta hiểu rằng tác giả đã dành cho cô gái này một tình cảm rất đáng trân trọng, rất nghiêm túc. Tại sao không phải là hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ đến “Cha mẹ, anh em, mái nhà cũ”! Vì đó là “ký ức” mà ý thức không thể điều khiển được mà trái tim lại cồn cào, nóng bỏng với nỗi nhớ. Các từ, vần “trắng, nắng”,

Năm nay mẹ còn gánh lúa

Nắng lấp lóa bên bờ sông trắng

Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Nhưng trong “mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc biệt, và vẫn rất sâu lắng, không chỉ có “mùa chín” mà còn “rơi lệ” lòng thi nhân, “rơi lệ” nỗi nhớ làng, nỗi nhớ làng. người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.

Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bùi ngùi. Với tâm hồn lãng mạn và ca từ trữ tình độc đáo, Hàn Mặc Tử đã để lại một hình ảnh mùa xuân, một hình ảnh mùa xuân, một nét xuân dịu dàng. Người đi rồi nhưng tình còn mãi. Bài thơ này và danh dự Hàn Mặc Tử trường tồn mãi mãi.

Tham khảo thêm các bài tập làm văn lớp 10 hay:

Ngân hàng câu hỏi lớp 10 tại http://thptphandinhphungphuyen.edu.vn/

CHỈ 250.000 1 KHÓA HỌC, PDP HỖ TRỢ COVID

List Video Hướng Dẫn Giảng Viên Hay Nhất – chỉ 99.000 cho teen 2k5 tại http://thptphandinhphungphuyen.edu.vn/

Có app PDP trên điện thoại giải bài tập SGK, Soạn SBT, văn mẫu, thi online, bài giảng… miễn phí. Tải xuống ứng dụng ngay bây giờ trên Android và iOS.

cửa hàng táo

Google Play

Các nhóm học facebook miễn phí dành cho genz2k8: fb.com/groups/genz2k6/

Theo dõi chúng tôi trên Facebook và YouTube:

Nếu thấy hay hãy động viên và chia sẻ nhé! Những bình luận không tuân thủ các quy tắc bình luận của trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

Giải bài tập lớp 10 liên kết tri thức khác

Website: Thptphandinhphungphuyen.edu.vn Chuyên mục: Văn học lớp 10

Google dịch

Google Google Übersetzer


Video (40+ mẫu) Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (cực hay) [mới nhất 2023]

Related Posts