Ngữ văn THPT: Dàn ý & văn mẫu hay nhất mới nhất 2023

Bạn đang xem bài viết Dàn ý & văn mẫu hay nhất. Hi vọng sẽ là đáp án bạn ưng ý. Cùng theo dõi nhé!

Nước ta có rất nhiều những danh lam thắng cảnh đẹp chứa đựng những tinh hoa văn hóa của ông cha ta để lại như: Văn Miếu – Quốc Tử Giám, cung đình Huế,….Tiêu biểu trong số đó phải kể đến chùa Hương với nét đẹp đặc sắc, độc đáo để lại ấn tượng khó quên trong lòng du khách tứ phương. Dưới đây Cấp Nước Lào Cai sẽ giúp bạn đọc tổng hợp một số bài mẫu thuyết minh về chùa Hương hay nhất được tuyển chọn, các bạn cùng tham khảo nhé.

Dàn ý thuyết minh về chùa Hương

Mở bài

– Giới thiệu danh lam thắng cảnh cần thuyết minh: chùa Hương

Thân bài

1. Vị trí của chùa Hương

– Thắng cảnh chùa Hương thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ,  nay thuộc Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 70 ki lô mét về phía Tây Nam.

2. Lịch sử hình thành

– Chùa Hương được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, nhưng sau nhiều cuộc chiến tranh ác liệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị tàn phá nặng nề năm 1947.

– Năm 1988, chùa mới được phục dựng, tu sửa bởi Thượng tọa Thích Viên Thành.

3. Đặc điểm

– Điều hấp dẫn của chùa Hương là sự kết hợp hài hòa giữa núi non, sông suối và đồng ruộng, tạo nên khung cảnh thiên nhiên đa dạng, đẹp như một bức tranh sơn thuỳ.

– Để thăm hết các đền, chùa trong quần thể này, người hành hương và khách du lịch thường đi theo các tuyến đường khác nhau. Tuyến chính là từ bến Yến, đi thuyền đến bến Trò hoặc cũng có thể đi bộ theo con đường ven chân núi.

– Các đền, chùa nằm rải rác từ chân núi lên đỉnh núi: đền Trình, chùa Thanh Sơn, chùa Thiên Trù (chùa Ngoài), chùa Giải Oan, chùa Tiên, động Hương Tích (chùa Trong), chùa Hình Bồng, chùa cây Khế …

– Chùa Ngoài cùng với chùa Trong được xem là khu vực chính của quần thể chùa Hương.

– Từ năm 1986 đến năm 1994, chùa Thiên Trù đã được phục hưng lại toàn bộ bao gồm gác chuông, nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ “Đinh”, và Nam Thiên Môn theo nguyên mẫu.

– Động Hương Tích lớn nhất, đẹp nhất, được chúa Trịnh Sâm ban tặng 5 chữ: “Nam thiên đệ nhất động” (động đẹp nhất trời Nam).

– Cảnh sắc kì diệu trong lòng động hiện ra trong ánh sáng huyền ảo. Chính giữa động có pho tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Xung quanh là những nhũ đá hình cây vàng, cây bạc, buồng tằm, nong kén, núi Cô, núi Cậu… và đặc biệt là hình chín con rồng trên vòm động.

4. Lễ hội chùa Hương

– Hội chùa Hương diễn ra vào ngày mồng 6 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch.

– Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương, cùng với nhiều hoạt động văn hóa truyền thống như hát chèo, hát quan họ trên suối Yến, đua thuyền, …

Kết bài

– Khái quát hóa vẻ đẹp của chùa Hương và nêu cảm nghĩ của bản thân.

Thuyết minh về chùa Hương – Mẫu 1

Hà Nội không những là địa danh lịch sử, văn hóa, chính trị quan trọng nhất trong lịch sử nước ta mà còn là nơi có rất nhiều danh lam thắng cảnh không những có giá trị về mặt thẩm mỹ, về mặt lịch sủ mà còn về mặt tâm linh. Một trong những thắng cảnh tiêu biểu của thủ đô Hà Nội, không thể không kể đến khu du lịch tâm linh chùa Hương – nơi mà mỗi năm khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước nườm nượp đổ về đây vừa cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để chìm đắm trong khung cảnh thần tiên của nó.

Khi nhắc đến Chùa Hương ta cứ nghĩ đó chỉ là một ngôi chùa nhưng thực chất Chùa Hương là một quần thể di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia, bao gồm nhiều ngôi đền, chùa, hang động đẹp, linh thiêng, nằm gần con sông Đáy, tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 70 ki lô mét về phía Tây Nam.

Về lịch sử hình thành, chùa Hương được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, nhưng sau nhiều cuộc chiến tranh ác liệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị tàn phá nặng nề năm 1947. Phải đến năm 1988, chùa mới được phục dựng, tu sửa bởi Thượng tọa Thích Viên Thành. Dù đã phục dựng được những nét đặc trưng nhất, song vẫn không thể giống hoàn toàn chùa Hương tiên cảnh như trước đây.

Ấn tượng đầu tiên khi đến với quần thể di tích chùa Hương là sự giao thoa hài hòa giữa nét đẹp thiên nhiên kỳ vĩ và vẻ đẹp tâm linh huyền bí, thiêng liêng. Có thể nói quần thể chùa Hương được tạo nên từ bàn tay kỳ công, khéo léo của con người và sự ban tặng của mẹ thiên nhiên. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trên triền núi đá vôi, thấp thoáng dưới rừng cây xanh thẳm. nằm dọc theo thung lũng suối Yến. Để thăm hết các đền, chùa trong quần thể này, người hành hương và khách du lịch thường đi theo các tuyến đường khác nhau. Tuyến chính là từ bến Yến, đi thuyền đến bến Trò hoặc cũng có thể đi bộ theo con đường ven chân núi. Trên đường từ bến Yến đến bến Trò họ thường dừng thuyền ở đền Trình, ngôi đền thờ một vị thần núi trên núi Ngũ Nhạc – một ngôi đền được tọa lạc dưới bóng của năm ngọn núi nổi tiếng. Trên dòng suối Yến có cây cầu gỗ được gọi tên là Cầu Hội. Từ chân cầu đi vào bên trái có thể đi vào ngôi chùa Thanh Sơn trong động núi. Cuối suối Yến là bến Trò, từ đây có thể đi bộ đến chùa Trò, tức chùa Thiên Trù hay còn gọi là chùa Ngoài. Chùa Ngoài cùng với chùa Trong được xem là khu vực chính của quần thể chùa Hương. Từ bến vào chùa có một nhà bia trong đó có tấm bia “Thiên Trù tự bi ký” dựng năm Chính Hòa thứ 7 (1686) ghi lại những hoạt động tu sửa của chùa Thiên Trù và chùa Hương Tích. Ở đây còn có Thiên Thủy Tháp là một mỏm đá mọc ngược thành một cây tháp thiên tọa, nước mưa trên núi theo tháp chảy xuống. Từ năm 1986 đến năm 1994, chùa Thiên Trù đã được phục hưng lại toàn bộ bao gồm gác chuông, nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ “Đinh”, và Nam Thiên Môn theo nguyên mẫu. Gần chùa Thiên Trù là núi Tiên, có chùa Tiên trong hang. Trong chùa Tiên có năm pho tượng phật bằng đá do những người thợ đá ở Kiện Khê (Hà Nam) đục năm 1907 dựa theo truyền thuyết Bà Chúa Ba Diệu Thiện.  Giữa đường từ chùa Thiên Trù đến động Hương Tích là chùa Giải Oan, ở trước chùa này có một ngọn suối chín nguồn có tên trùng với tên chùa. Ở đây còn có giếng nước trong vắt gọi là giếng Long Tuyền. Gần chùa là động Tuyết Quynh và am Phật Tích. Cách đó không xa, du khách bước chân đến núi Chấn song để thăm viếng đền Vông thờ Mẫu Thượng Ngàn. Ấn tượng thứ hai không thể không nhắc đến là hang động đẹp nhất Việt Nam – đó chính là động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong, nằm cách chùa Thiên Trù khoáng 2 ki-lô-mét theo đường núi quanh co. Chùa Trong không phải là công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên. Đường xuống hang chùa là một dốc gồm 120 bậc đá. Vách đá trước cửa động có năm chữ Hán “Nam thiên đệ nhất động” do Chúa Trịnh Sâm khắc vào năm 1770. Chính giữa động có pho tượng Quán Thế Âm Bồ Tát rất đẹp. Xung quanh là những nhũ đá hình cây vàng, cây bạc, buồng tằm, nong kén, núi Cô, núi Cậu… và đặc biệt là hình chín con rồng trên vòm động tạo ra một cảnh thiên nhiên kỳ ảo. Trong động Hương Tích còn có quả chuông đồng cao 1,24 mét đúc năm Thịnh Đức thứ 3 (1655). Ngoài ra từ chùa Thiên Trù còn có lối rẽ quanh rừng mơ đến chùa Hình Bồng. Một tuyến đường nữa theo một nhánh của Suối Yến, qua núi Ông sư Bà Vãi, cập bến Long Vân, leo núi thăm chùa Cây Khế. Cách đó vài trăm mét, có hang Sũng Hàm, một di chỉ văn hóa Hòa Bình thời xưa.

Khi nhắc đến chùa Hương ta không thể quên một nét đặc trưng của văn hóa Việt đó là Lễ hội chùa Hương. Hội chùa Hương diễn ra vào ngày mồng 6 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương, cùng với nhiều hoạt động văn hóa truyền thống như hát chèo, hát quan họ trên suối Yến, đua thuyền, …

Quần thể di tích Hương Sơn xứng danh là Thiên Nam đệ Nhất động, là một sự kết hợp giữa cái vẻ thơ mộng trữ tình của trời mây non nước với nét thâm nghiêm, thanh tịnh chốn thiền tu, cũng là sự kết hợp hài hòa giữa bao la của đất trời, nét rêu phong cổ điển của cảnh vật với bàn tay xây dựng của con người mà không ngọn bút nào tả hết được. Chỉ muốn mượn bài thơ “Chùa Hương” của nhà thơ Tố Hữu” thay cho lời kết:

“Bến Đục qua rồi… suối Yến trong
Long lanh núi gấm, nước mây lồng
Mái chèo đưa khách lên tiên giới
Lặng lẽ thuyền trôi giữa sắc, không …

Ai biết ngàn xưa… thuở Lạc Hồng
Hùng vương bộ tướng ngắm non Bồng
Dừng cương… xây nếp Thiên Trù ấy
Cho mai sau con cháu ấm lòng!

Và một hôm nào… sáng tháng năm
Rừng mơ ríu rít, Bác về thăm
Dấu hương Người quyện sương Hương Tích
Ngân tiếng chuông đồng, vọng tiếng Tâm…

Ôi! Trưa nay, bước từng bậc đá
Róc rách còn nghe suối Giải Oan
Ước gì đời mãi tươi xanh lá
Thanh thản Chùa Hương, cả thế gian!”

Thuyết minh về chùa Hương – Mẫu 2

Nói về văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những đền chùa cổ kính, linh thiêng mang nét đẹp đặc trưng, trầm lắng, nơi bày tỏ niềm thành kính, biết ơn với người xưa, với tín ngưỡng tôn giáo. Một trong những ngôi chùa cổ, nổi tiếng của nước ta phải kể đến chùa Hương_ danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.

Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời kỳ Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Thượng Toạ Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hoà thượng Thích Thanh Chân.

Nơi đây gắn liền với với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo phật thoại xưa kể lại rằng người con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương nước Hương Lâm tên là Diệu Thiện  chính là chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, trải qua nhiều thử thách, gian nan với chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật để cứu độ chúng sinh.

Dưới đôi bàn tay khéo léo của người xưa cùng với những nét đẹp tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, mà vẻ đẹp của chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến.

Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái.

Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên.

Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán“Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.

Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương.

Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch.Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản.

Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút.Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ.

Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo.

Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn,  người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Ta có thể thấy phần lễ là tổng hợp toàn thể hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể những tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.

Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều  khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn.

Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc, phong cảnh chùa cùng với nét đặc sắc của ngày lễ mà chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển con người từ xa xưa đến ngày nay, cần được bảo tồn, duy trì và gìn giữ di sản mà ông cha ta để lại.

Như vậy, với những giá trị đó, chùa Hương chính là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với chùa Hương là đến với không gian thanh tịnh, sông chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống ngoài kia.

Thuyết minh về chùa Hương – Mẫu 3

Nước ta có rất nhiều những danh lam thắng cảnh đẹp chứa đựng những tinh hoa văn hóa của ông cha ta để lại như: Văn Miếu – Quốc Tử Giám, cung đình Huế,….Tiêu biểu trong số đó phải kể đến chùa Hương với nét đẹp đặc sắc, độc đáo để lại ấn tượng khó quên trong lòng du khách tứ phương.

Chùa Hương mang một nét đẹp rất riêng mà không ngôi chùa nào có được bởi nơi đây được tạo nên  bởi hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, tọa lạc ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại vào năm 1988.

Tuy được biết đến nhiều nhất nhưng chùa Hương ở Hà Nội lại chỉ là “phiên bản” của chùa Hương Tích ở Hà Tĩnh, sử cũ kể lại rằng chúa Trịnh Sâm vì không muốn những vị phi tần, mỹ nữ của mình phải đi cúng bái xa như vậy nên đã cho người xây dựng quần thể chùa Hương ở Hà Nội.

Nơi đây thờ bà chúa Ba theo tín ngưỡng dân gian, truyền thuyết kể lại rằng Diệu Thiên_ công chúa thứ ba của nước Hương Lâm chính là bà chúa Ba hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát ,trải qua những thử thách, gian khổ sau chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật đi phổ độ chúng sinh.

Có thể nói chùa Hương là sự kết hợp hài hòa giữa nét đẹp tự nhiên của tạo hóa và nét đẹp kiến trúc nhân tạo qua hình ảnh đền chùa nơi đây. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù.

Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất.

Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên. Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá.

Vách động có năm chữ Hán“Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.

Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch.

Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản.

Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút.Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ.

Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo.

Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn,  người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Ta có thể thấy phần lễ là tổng hợp toàn thể hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể những tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.  Trong lễ hội có rước lễ và rước văn.

Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều  khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn.

Có thể thấy nét đẹp của chùa Hương còn nằm ở những giá trị văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc cùng với giá trị sống của con người từ xưa đến nay và giá trị du lịch đang ngày càng phát triển ở nơi đây. Chùa Hương chính là niềm tự hào của bao người con đất Việt, quảng bá đời sông văn hóa tâm linh của người dân ra ngoài thế giới.

Qua các bài viết trên có thể bạn đã hiểu hơn rất nhiều về chùa Hương. Chúc bạn có bài viết thuyết minh về chùa Hương hay nhất. Cảm ơn các bạn đã ghé thăm bloghochanh nhé. Dưới đây là tổng hợp các bài văn thuyết minh mà có thể bạn sẽ quan tâm.

Bạn đang xem bài viết Dàn ý & văn mẫu hay nhất xem thêm các bài viết khác về chủ đề Ngữ văn Trung Học Phổ Thông. Chúc bạn 1 ngày vui vẻ!

Related Posts